Trinh nữ hoàng cung tác dụng hỗ trợ điều trị u xơ buồng trứng, u xơ tiền liệt tuyến
Từ lâu, trinh nữ hoàng cung đã được sử dụng trong Hoàng Cung để điều trị nhiều loại bệnh cho Trinh Nữ (do đó có tên là Trinh Nữ Hoàng Cung). Sau nhiều nghiên cứu, tác dụng của Trinh Nữ Hoàng Cung đã được khẳng định chủ yếu đối với u xơ buồng trứng (nữ giới), u xơ tiền liệt tuyến (nam giới).Từ lâu, trinh nữ hoàng cung đã được sử dụng trong Hoàng Cung để điều trị nhiều loại bệnh cho Trinh Nữ (do đó có tên là Trinh Nữ Hoàng Cung). Sau nhiều nghiên cứu, tác dụng của Trinh Nữ Hoàng Cung đã được khẳng định chủ yếu đối với u xơ buồng trứng (nữ giới), u xơ tiền liệt tuyến (nam giới).
Trinh Nữ Hoàng Cung có trong Nano ROCORI có tác dụng hữu hiệu đối với cả Nữ và Nam, là lựa chọn #1 cho người có nguy cơ u xơ tử cung, u xơ tiền liệt tuyến.
GS.TS. Trần Đức Thọ, Viện lão khoa, Bệnh viện Bạch Mai trong đề tài nghiên cứu của mình cho thấy: sau 2 tháng dùng sản phẩm chứa Trinh Nữ Hoàng Cung, nhóm bệnh nhân được nghiên cứu đạt hiệu quả khá và tốt là 89,18%.
PGS.TS. Vương Tiến Hoà, Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong đề tài nghiên cứu của mình cho thấy: Trinh Nữ Hoàng Cung có hiệu quả điều trị đối với bệnh nhân u xơ tử cung (đặc biệt là đối với u xơ tử cung có kích thước từ 6 cm trở xuống) với hiệu quả điều trị đạt 79,5%.
Theo chúng tôi được biết, cho đến nay, đây là loại thuốc sản xuất từ dược thảo đầu tiên trên thế giới có khả năng điều trị u xơ tử cung ở phụ nữ.
Cây Trinh nữ hoàng cung
Cây trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium L.) họ thủy tiên (Amaryllidaceae), thuộc loài cây thân thảo, gần giống cây náng hoa trắng, thân hành, đường kính 10 – 16 cm, bẹ lá úp vào nhau thành thân giả dài khoảng 8 – 15cm, có màu đỏ tía của sắc tố antocyan. Lá mỏng hình dải, mép lá nguyên, hơi uốn lượn, dài 70 – 120 cm, rộng 3 – 9 cm, gân lá song song. Khác với lá náng hoa trắng là mặt dưới, giữa sống lá có một gờ sắc nhỏ chạy dọc theo lá. Cán hoa dài 20 – 50 cm, trên đầu mang 10 – 20 hoa hợp thành tán, có bẹ hình tam giác màu xanh ve, dài 5 – 7 cm, cuống hoa ngắn. Hoa dài 10 – 20 cm, đài và cánh hoa như nhau, màu trắng, ở giữa có vệt phớt hồng tạo thành ống dài 7 – 10 cm cong, nhị ngã, dài 5 – 7 cm. Bao phấn hình sợi dài 20 – 25 cm, dính lưng. Bầu hình ống chỉ, vòi nhị mảnh, vượt lên trên nhị.
Phân bố thu hái chế biến
Trinh nữ hoàng cung có nhiều ở Thái Lan, Campuchia; Ở Việt Nam cây phát triển tốt với khí hậu miền Nam nước ta. Bộ phận dùng là lá, dùng tươi hoặc phơi khô, có người thái nhỏ sao khô, hạ thổ để dùng dần. Nhưng ở một số nước, người dân dùng cánh hoa, thân hành của cây, thái nhỏ phơi khô.
Các chất có tác dụng kháng u
Từ năm 1983 cho đến nay, các công trình nghiên cứu về trinh nữ hoàng cung đã công bố thành phần hóa học của nó có khoảng 32 alcaloids. Trong số đó đáng quan tâm là một số alcaloids có tác dụng kháng u như : crinafolin, crinafolidin, lycorine, và b – epoxyambellin tác dụng trên tế bào T – lymphocyte và còn có tác dụng kháng khuẩn như hamayne (bulbispenmine, flavonoid, demethylcrinamine). Ngoài alcaloids còn có các hợp chất bay hơi, aldehyd, acid hữu cơ, terpens và glucan A, glucan B.
Công dụng và liều dùng
Trong dân gian, người ta dùng nước sắc của lá trinh nữ hoàng cung để trị u xơ tử cung, u nang buồng trứng và u xơ tiền liệt tuyến. Cách dùng: mỗi ngày uống nước sắc của 3 lá trinh nữ hoàng cung hái tươi, thái nhỏ ngắn 1 – 2 cm, sao khô màu hơi vàng, uống luôn trong 7 ngày rồi nghỉ 7 ngày, uống 7 ngày. Tổng cộng 3 đợt uống 7 x 3 x 3 = 63 lá, xen kẽ giữa 2 đợt nghỉ uống một đợt 7 ngày.
Nano Fucomin Giải Pháp Mới Từ Học Viện Quân Y
| Unti-K Hộp 60 Viên - Ứng Dụng Giải Pháp Truyền Thống
|
TAGunti-k